Hội đồng Suông tên thật Hà Mỹ Suông, là một đại điền chủ người Việt gốc Hoa có thế lực rất lớn ở đất Hà Tiên xưa. Vào năm 1936, ông đã chi khoảng 3.000 lạng vàng để xây mộ cho cha mẹ. Ông đã thuê khoảng 60 người gánh đất suốt 6 tháng đắp nên một quả đồi cao 5 m để tạo mặt bằng xây mộ. Năm 1938, thì khu mộ hoàn thành.
Khu lăng mộ cổ 3.000 lượng vàng là một quần thể kiến trúc phức tạp, với trung tâm là nơi đặt mộ phần có diện tích 7 x 7 m, được xây hoàn toàn bằng đá cẩm thạch nhập từ Italia. Cổng mộ cao 2,8 m, vòm cổng vòng cung, hai mặt đều có hình “lưỡng long triều nguyệt”.
Tường bao bọc khu mộ được trang trí những phù điêu bằng cẩm thạch trắng chế tác rất tinh xảo.
Các cột đá cũng được trang trí họa tiết đặc sắc như đầu lân, búp sen, lá cúc, các loại hoa quả miền Nam…
Dù gọi là mộ Hội đồng Suông nhưng trên thực tế nơi đây chỉ có mộ của song thân ông Hội đồng là ông Hà Mỹ Đức và bà Trần Thị Nghĩa Hương. Cả hai ngôi mộ đều được làm bằng đá cẩm thạch, có chạm khắc hình thú tinh xảo.
Vào thời điểm được xây dựng, khu mộ đá này được coi là một kỳ công của nghệ thuật chế tác đá, vì thợ thủ công Việt Nam khi đó chưa có khả năng đẽo gọt đá cẩm thạch – một loại đá rất cứng – bằng kỹ thuật truyền thống.
Hai bên mộ có hai hòn non bộ rất lớn được làm bằng đá ong,cũng là hai vòm cổng dẫn vào đền thờ phía sau mộ. Để thực hiện hai hòn non bộ này, ông Hội đồng Suông đã thuê hai nhóm thợ: Nhóm thợ Trung Quốc xây dựng hòn non bộ phía Đông (gọi là Đông Sơn Mộ), nhóm thợ người Việt từ Bắc vào xây dựng hòn non bộ phía Tây (gọi là Tây Sơn Mộ).
Cả hai hòn non bộ đều có bậc thang dẫn lên đỉnh và được trang trí rất nhiều hình người và chim thú bằng đá dựa trên các điển tích nghệ thuật Trung Quốc.
Tượng hươu dưới chân hòn non bộ.
Đền thờ ở phía trong cùng của quần thể lăng mộ. Đây là một ngôi nhà hai gian ba chái, được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu đình chùa truyền thống của người Hoa. Gian giữa là nơi thờ tự. Hai chái dành cho người ở để trông nom, hương khói cho khu mộ.
Công trình này lợp mái ngói uốn cong, bên trên trang trí hoa văn hình rồng và hoa lá.
Vách tường ốp nhiều bức họa khảm sành sứ, miêu tả phong cảnh thiên nhiên và những huyền tích ở Trung Quốc.
Các bức tường trong đền thờ bài trí nhiều tranh vẽ, câu đối, bài thơ…
Trước đền thờ có long đình, là một kiến trúc tám mái uốn cong, có 14 cột đỡ mái, trang trí hình rồng đắp nổi cuốn quanh cột. Trong long đình, có bàn thờ và bia thờ ghi công đức của người quá cố, viết theo lối chữ thảo.
Đặc biệt, dưới nền của đền thờ có một đường hầm dài hàng chục mét, trên vách hầm có những tranh tượng phù điêu miêu tả cảnh thập điện, những cảnh rùng rợn gọi là “đường xuống âm phủ”.
Cuối đường hầm là một căn phòng khá rộng. Năm 1941, tầng hầm này là nơi diễn ra cuộc họp của Tỉnh ủy Hậu Giang, sau đó thành lập Tỉnh ủy Lâm thời Rạch Giá, và trong hai cuộc kháng chiến còn là nơi ẩn náu của một số chiến sỹ cách mạng.
Theo lời của người dân trong vùng, lúc sinh thời Hội đồng Suông là một nhà từ thiện lớn của vùng Nam Kỳ lục tỉnh, thường xuyên giúp đỡ các tổ chức từ thiện xã hội, giúp đỡ người nghèo. Ông mất khi khu lăng mộ hoành tráng xây dựng cho cha mẹ vẫn còn dang dở.
Theo KIẾN THỨC